Nghiên cứu khoa học
Di tích về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trên đất Lang Chánh và vấn đề phát huy giá trị trong hoạt động du lịch

Di tích về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trên đất Lang Chánh

và vấn đề phát huy giá trị trong hoạt động du lịch

 

PGS.TS. Trần Văn Thức – TS. Lê Thị Thảo

Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa

 

  1. Đặt vấn đề

Năm 1416, Lê Lợi và 18 người thân tín đã tổ chức Hội thề Lũng Nhai, kết nghĩa anh em, quyết tâm đánh giặc cứu nước. Năm 1418, từ vùng núi rừng Lam Sơn, Lê Lợi tự xưng là Bình Định Vương cùng toàn thể nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa, kêu gọi nhân dân khắp nơi đứng lên chống ách đô hộ của nhà Minh.

Trong suốt 10 năm chiến đấu gian khổ với những chiến tích hào hùng của nghĩa quân Lam Sơn, vùng núi rừng miền Tây Thanh Hóa đóng vai trò đặc biệt quan trọng, vừa là thành lũy, tiền đồn, vừa là hậu phương, căn cứ địa vững chắc cho nghĩa quân Lê Lợi.

Mảnh đất Lang Chánh tuy không phải là nơi khởi phát của cuộc khởi nghĩa, nhưng là nơi chứng kiến những tháng ngày gian khổ, nếm mật, nằm gai của nghĩa quân, bảo toàn lực lược trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Có thể coi Lang Chánh là địa bàn chiến lược để nghĩa quân trú ẩn và phát triển hùng mạnh, giành thắng lợi sau này. Nhiều dấu tích trải qua 6 thế kỷ vẫn còn lưu lại như là những minh chứng rõ ràng cho quãng thời gian hào hùng ấy.

  1. Di tích về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trên đất Lang Chánh

2.1. Núi Chí Linh

Chí Linh (hay Linh Sơn) thuộc dãy núi Pù Rinh là một vùng núi hiểm yếu bậc nhất ở thượng du sông Chu, đỉnh cao nhất tới 1.291m so với mực nước biển, kéo dài và chiếm một khu vực khá rộng lớn thuộc hai huyện Lang Chánh và Thường Xuân. Sự rậm rạp, hiểm yếu của núi Chí Linh đã được ghi lại trong bài phú Núi Chí Linh của Nguyễn Mộng Tuân – người đỗ Thái học sinh cùng khoa với Nguyễn Trãi, sớm tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và được Lê Lợi tin dùng:

“Một dải quanh co bao bọc, không thể hình trạng; thật cũng trời dànhđất giấu, bí hiểm muôn vàn.

…Nghìn trượng đá cao, kể cũng kim thang chốn hiểm; lưng trời vách núi, xem tày bách nhị cửu quan.

…Khen quả núi khéo chăm lo chức vụ, sắp cơ ngơi để đón rước xe loan…”[1]

Ba lần nghĩa quân phải rút lên núi Chí Linh để cố thủ năm 1418, 1419, 1422.  Lựa chọn núi Chí Linh làm căn cứ, như Nguyễn Trãi nhận định: khác nào đất Mang Đăng khi Hán hoàng khởi nghiệp…, đất Cối Kê thời Việt vương ẩn náu (Phú Núi Chí Linh, Nguyễn Trãi). Quanh núi Chí Linh có tầng tầng, lớp lớp núi đồi, cây cối um tùm, suối sâu vách đá cheo leo vô cùng hiểm trở tạo thành bức tường thành thiên nhiên đùm bọc nghĩa quân trong những lúc gặp khó khăn, chưa đủ sức để đương đầu với những cuộc vây quét quy mô của địch. Nghĩa quân đã cắt cử người canh gác liên tục, nếu có giặc đến thì kịp thời cấp báo cho chủ tướng đối phó. Từ đỉnh núi này có thể quan sát xung quanh, vì vậy kịp thời đối phó với sự truy sát của địch.

Tuy nhiên, sự hẻo lánh, thưa thớt dân cư cũng khiến nghĩa quân khó khăn trong việc tiếp tế lương thực, phát triển lực lượng trong tình thế quân Minh bao vây, chặn mọi ngả đường lên núi, xiết chặt vòng vây, đồng thời cả dụ hàng mong làm nao núng tinh thần nghĩa quân. Lực lượng nghĩa quân hao mòn, lương thực cạn kiệt. Trong lần rút lên núi Chí Linh lần thứ nhất “hơn mười ngày chỉ ăn củ nâu và mật ong, người ngựa đều khốn đốn[2]. Lần thứ hai trải qua ba tháng tuyệt lương, phải tìm măng tre, nứa và các loại cây, củ có thể ăn được để sống qua ngày. Lần thứ ba Lê Lợi phải cho giết cả voi, ngựa và cả con ngựa của mình cưỡi để nuôi quân. Sự gian khổ ở Chí Linh đã lựa chọn thể hiện trong bài Bình Ngô Đại cáo để nói lên những thời điểm cam go đầy thử thách của 10 năm kháng chiến:

Khi Linh sơn lương cạn mấy tuần,

Khi Khôi huyện quân không một lữ.

Tình hình của nghĩa quân vô cùng nguy khốn:

Vợ con lưu ly, quân sĩ tan tác,

… Mang giáp trụ để che thân, lấy rau củ làm lương,

 (Phú Núi Chí Linh – Nguyễn Trãi)

Nhưng tất cả vẫn không đè bẹp được ý chí chiến đấu, sự lạc quan tin tưởng của nghĩa quân Lam Sơn, luôn tìm mọi cách để bảo toàn, khôi phục lực lượng:

Rồi thu tập tàn quân, nuôi vỗ ân cần,

Trong rèn chiến cụ, ngoài giả hòa thân.

                                         (Phú Núi Chí Linh, Nguyễn Trãi)

Sự cố gắng một cách quyết liệt và khôn khéo của nghĩa quân thời kỳ ẩn mình ở núi Chí Linh đã được sử sách ghi chép lại: Bà Chiêu Nghi – người thiếp của Lê Lợi lo chạy lương thực; Nguyễn Nhữ Lãm trở về quê (làng Mía, Thọ Diên, huyện Thọ Xuân ngày nay) tìm cách tổ chức tiếp tế lương thực và mắm muối lên Chí Linh… Trong cuộc bao vây lần thứ hai, tại núi Chí Linh đã chứng kiến câu chuyện cảm động về Lê Lai cải trang thành “chúa Lam Sơn” liều mình cứu chúa, mà ngày nay còn lưu truyền qua câu ca dao: Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi.

Như vậy, đối với nghĩa quân Lam Sơn, núi Chí Linh như một ngọn núi thiêng, nơi chủ tướng đồng cam cộng khổ, là biểu tượng của tinh thần chịu đựng gian khổ, ý chí bền bỉ, ngoan cường và lạc quan trong hoàn cảnh đen tối nhất. Nhờ vậy, sau ba lần phải rút lên cố thủ, bộ chỉ huy Lam Sơn được bảo toàn, dẫn đến việc nghị hòa với giặc Minh năm 1423, tạo điều kiện để năm 1424, nghĩa quân chuyển hướng chiến lược vào Nam, xây dựng căn cứ địa mới ở Nghệ An. Từ đó phát triển lực lượng, đánh thẳng ra Đông Quan, tiêu diệt toàn bộ quân địch, giải phóng dân tộc.

Ngày nay, trên ngọn núi Chí Linh, nhân dân đã dựng một ngôi miếu đơn sơ lợp mái lá, bệ thờ xi măng để thờ nghĩa quân Lam Sơn.

2.2. Thác Ma Hao

Thác Ma Hao nằm dưới chân núi Chí Linh, thuộc làng Năng Cát, xã Trí Nang, huyện Lang Chánh. Đây là dòng thác lớn nhất của sông Cảy, được hợp thành bởi những dòng suối nhỏ từ đỉnh Pù Rinh đổ xuống.

Địa danh Ma Hao gắn với truyền thuyết về những ngày nghĩa quân Lam Sơn lui về núi Chí Linh để củng cố lực lượng, tránh sự vây quét của quân Minh. Truyền thuyết trong vùng kể rằng, trong một lần bị bủa vây, truy sát ráo riết, Lê Lợi và quân lính mang theo một con chó chạy từ đỉnh núi Pù Rinh xuống, người và vật đã kiệt sức thì gặp một thác cao chảy xiết, quân giặc lại đuổi đến sát phía sau. Lê Lợi cùng quân lính phải mạo hiểm vượt thác để sang bờ bên kia. Còn con chó do đã kiệt sức, suối lại rộng không thể qua được nên chỉ đứng ngáp. Khi quân giặc đuổi đến, con chó đã chống trả quyết liệt quân giặc, làm chậm sự truy lùng của chúng để nghĩa quân có thời gian thoát đi an toàn, cuối cùng lao mình xuống dòng thác. Khi quân Minh rút đi, Lê Lợi đã cho quân lính tìm xác con chó và cho chôn cất tử tế. Để tưởng nhớ chú chó trung thành, đầy nghĩa tình, Lê Lợi đã đặt tên dòng thác là Ma Háo, theo tiếng Thái là “chó ngáp”, lâu dần người ta đọc chệch thành Ma Hao.

Ma Hao là một thác nước lớn còn hoang sơ. Đường đi đến tháp phải băng qua một đoạn rừng cây cối xanh tươi. Trong lòng thác là vô số các hòn cuội lớn nhỏ với nhiều hình thù khác nhau, khiến du khách có thể tưởng tượng đến hình ảnh một đàn voi đang tắm suối, một bãi trứng khổng lồ hay những hòn non bộ… Thác tràn xuống từ vách núi trên cao tạo nên những màn nước độc đáo khiến người ta liên tưởng tới một mái tóc dài vắt ngang qua rừng rậm xanh thẳm. Nước suối quanh năm trong mát, lại có những vũng lớn để du khách có thể sử dụng như hồ bơi. Đối với những du khách can đảm lội ngược dòng thác, lên đến “cửa gió” có thể nghe thấy bản hòa âm của rừng núi: tiếng ào ào thác nước, tiếng chim hót, tiếng gió, tiếng rừng cây lao xao…, và như có cả những âm hưởng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hào hùng vọng về.

2.3. Chùa Mèo và chiếc chuông thời Lê

Chùa Mèo tên chữ là Đỉnh Miêu thiền tự (chùa trên đỉnh núi Mèo) tọa lạc trên một ngọn đồi ở thôn Chiềng Ban, xã Quang Hiến. Theo dân gian, xưa kia trên đồi có nhiều mèo hoang sinh sống nên gọi là đồi Miêu, tên chùa cũng được gọi theo đặc điểm này. Chùa còn có tên là chùa Chu, bởi tương truyền được công chúa nhà Trần là Chu Huyền cùng nhà Lang Mường Chếnh xây dựng.

Chùa tọa lạc trong một vùng rừng núi, sông suối hữu tình. Có núi trùng điệp bao bọc phía sau và hai bên như một chiêc ngai, có sông Âm phía trước làm minh đường. Dân gian trong vùng vẫn còn truyền tụng câu tục ngữ: “Nhất Hương, nhì Hà, ba Chu”, coi đây là một trong 3 ngôi chùa linh thiêng nhất xứ Thanh.

Truyền thuyết kể rằng, trong một lần Lê Lợi và nghĩa quân bị quân Minh truy sát ráo riết phải tìm cách ẩn nấp. Lê Lợi đã vào chùa Chu, lúc này rất hoang vắng để lánh nạn. Giặc Minh xua quân và chó săn tới vây ngay chỗ thủ lĩnh đang ẩn nấp, tình thế vô cùng nguy hiểm. Bỗng dưng có một con mèo từ trong lao ra đánh lạc hướng đàn chó chó và quân giặc, giải nguy cho người anh hùng dân tộc áo vải. Thoát kiếp nạn, Lê Lợi và nghĩa quân nán lại chùa thắp hương khấn Phật, cầu nguyện cho sự nghiệp kháng chiến thắng lợi.[3].

Câu chuyện về chùa Mèo gắn với vị anh hùng dân tộc Lê Lợi còn có một dị bản khác như sau: Một lần, khi hành quân qua chùa Chu, Lê Lợi và nghĩa quân đã vào chùa thắp hương lễ Phật cầu nguyện cho sự nghiệp kháng chiến thắng lợi. Lê Lợi thấy trong chùa chỉ còn lại một con mèo, sư sãi không biết đã đi lánh ở đâu. Lê Lợi cho lính bắt lấy con mèo mang theo trên đường rút quân vào Hón Oi. Khi có tin cấp báo quân giặc đang ráo riết đuổi theo nghĩa quân, Lê Lợi cho lính bỏ lại con mèo ở một rãnh đồi cách chùa Chu chừng 700m, ngày nay nhân dân gọi là Hòn Bỏ Mèo.

Chính vì vậy, ngôi chùa Mèo trong tâm thức nhân dân Lang Chánh là nơi che chở, đồng thời ghi dấu khát vọng mãnh liệt chiến thắng giặc ngoại xâm của nhân dân ta lúc bấy giờ.

Đuổi giặc Minh xong, lên ngôi vua, Lê Lợi đã sắc chỉ đổi tên chùa Chu thành chùa Mèo. Sau này, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc đại phá quân Thanh thắng lợi đã có Chiếu chỉ tu sửa, tôn tạo chùa Mèo.

Tại chùa Mèo còn có một chiếc chuông quý, hiện nay đang được lưu giữ tại Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thanh Hóa. Chuông cao 109cm, chu vi 149cm, đường kính miệng 50cm, đường kính đỉnh 30cm[4]. Niên đại đúc chuông cũng được khắc rõ ràng vào ngày Tết cuối xuân năm Vĩnh Thịnh thứ 14 (tức năm 1718). Chuông có 6 núm, quai chuông được tạo hình cân xứng, với mũi sư tử, bờm dài, tai dơi, thân phủ vây cá, móng nhọn, đuôi ngoắc vào nhau. Đường nét được đúc một cách sắc sảo, mang phong cách thời Lê trung hưng. Phần vai chuông được đúc nổi 8 chữ “Chú tạo Miêu đỉnh thiền tự hồng chung” (Ghi chép về việc làm chuông chùa trên đỉnh núi Mèo). Bài minh trên chuông có đoạn: "Âm vang tiếng chuông có thể nói vào hàng đầu, vì nó có thể làm thức tỉnh được những cơn mê của đông đảo chúng sinh". Điều đáng lưu ý là trên thân chuông khắc dày đặc chữ Hán ghi chép về việc “nhiều bản hội trong xứ Thanh Hoa” hưng công xây chùa, đúc chuông. Đó là đồng bào dân tộc ở động Khang Chánh, động Lương Sơn, châu Lang Chánh, quan Thổ Tù... Cũng lại có sự góp công của người Việt dưới đồng bằng ở thôn Trung Hòa, xã An Lãng, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Thiên (nay là huyện Thiệu Hóa) [5]. Từ đó cho thấy, giá trị quý giá của chuông chùa Mèo không chỉ ở nghệ thuật đúc chuông tài, nghệ thuật độc đáo mang phong cách đầu thế kỷ XVIII, mà hơn hết, cả chuông và chùa ở một vùng rừng núi xa xôi miền Tây Thanh Hóa đã quy tụ được sự hưng công xây dựng của nhân dân các dân tộc, ở khắp mọi miền xứ Thanh. Như vậy, tuy được đúc ở thời gian về sau, cách cuộc khởi nghĩa Lam Sơn 200 năm, nhưng như được tiếp nối tinh thần lịch sử thời trước, trở thành điểm quy tụ cộng đồng, và hơn hết là biểu hiện sự thống nhất vững chắc của dân tộc. 

Ngày này, lễ hội chính của chùa Mèo được tổ chức vào ngày 6 tháng Giêng hàng năm thu hút đông đảo khách thập phương đến tham gia.

2.4. Các làng bản có tên liên quan đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

Trong những tháng ngày gian khổ chiến đấu ở vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa, Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn không chỉ nhận được sự đùm bọc, che chở của đồng bào các dân tộc ở đây, mà còn được đồng bào yêu mến, sáng tạo, lưu truyền nhiều truyền thuyết đẹp. Ở Lang Chánh, nhiều bản làng có tên gọi gắn với những sự kiện, huyền thoại về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn[6]:

- Làng Chiềng Lẹn: Một lần Lê Lợi chạy trốn giặc Minh qua đây thì cả làng đóng góp lương thảo cho nghĩa quân rồi cùng Lê Lợi chạy lên làng Húng. Sau khi khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, đất nước hòa bình, nhân dân mới quay về làng làm ăn sinh sống. Vì lẽ đó mà làng có tên là Chiềng Lẹn (tức làng Chạy).

- Làng Húng: Một hôm khi bị giặc bao vây ráo riết, Lê Lợi đang tìm đường để thoát thì từ trong rừng sâu núi thẳm âm u bỗng thấy một điểm sáng ở phía Tây Nam. Lê Lợi cùng nghĩa quân cắt rừng nhằm hướng có điểm sáng để đi. Đến nơi, trời cứ sáng rõ rần và quả là có đường đi để thoát. Lê Lợi đặt tên cho nơi ấy là Húng. Húng trong tiếng Thái có nghĩa là “sáng”, được nhân dân dùng làm tên làng cho đến ngày nay.

- Làng Hiên: Một lần bị giặc truy đuổi ráo riết, chỉ còn Lê Lợi và một người lính thân cận. Cả hai người bèn cải trang thành người nông dân vào làng xin ngủ trọ. Dân làng này vốn hiếu khách nên chủ nhà làm cơm mời hai người ăn nhưng không có gì ngoài bát canh rau hiên nấu với lươn. Lê Lợi không ăn được thịt lươn nên suốt buổi chỉ ăn cơm với muối trắng. Sau hôm ấy, khi khách đã đi rồi, gia đình nọ mới biết đó chính là Lê Lợi. Họ bèn kể cho cả làng cùng nghe, sau đó dân làng cùng thống nhất đặt tên làng mình là làng Hiên để ghi nhớ kỷ niệm này.

- Làng Năng Cát: Trong một lần hành quân, qua đây khi trời đã về chiều, Lê Lợi cho ba quân hạ trại, nấu cơm, quân sỹ mang nồi niêu ra khe suối để vo gạo, lấy nước nấu cơm. Vì quân đông, lại vội vàng nên làm khe cạn, nước nấu cơm lẫn cả cát dưới khe. Khi dùng bữa, thấy có cát dưới đáy nồi cơm, để khắc ghi dấu ấn những ngày đầu gian khổ, Lê Lợi liền đặt tên cho vùng đất này là Năng Cát, tên ấy ngày nay vẫn được lưu giữ.

2.5. Các di tích khác

Gắn với bước chân của nghĩa quân Lam Sơn trên vùng đất Lang Chánh còn nhiều địa điểm, mà ngày nay các truyền thuyết vẫn còn in đậm trong tâm thức của người dân nơi đây.

Suối Lá (Huối Vớ) ở xã Giao An, tương truyền là nơi Nguyễn Trãi, trong những ngày “nằm gai nếm mật” đã cho người dùng mật, bôi lên lá cây dòng chữ “Lê Lợi vi vương, Lê Lai vi tướng, Nguyễn Trãi vi thần”, sau đó, kiến rừng ăn mật, vô tình đục thủng lá cây, để lại dòng chữ trên khiến cho quân sỹ tin tưởng đây là mệnh trời, thêm dốc lòng đánh giặc.

Cạnh suối Vớ có suối Láu, theo truyền thuyết, nơi đây thủ lĩnh Lê Lợi đã cho đổ rượu xuống suối, cùng ba quân múc uống “Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”.

Làng Húng (xã Giao Thiện), làng Đáy (xã Tân Phúc) đều có hòn đá vua ngồi, gắn với sự kiện khi Lê Lợi rút quân về khu vực núi Pù Rinh để bảo toàn lực lượng, hòn đá này là nơi ghi lại dấu tích của ông ngồi nghỉ lại.

Làng Chiềng Lẹn, làng Lằn Sổ, làng Tượt, bản Húng, hang Lòn – nơi Lê Lợi từng trú ẩn, dấu binh lương. Hón Oi (xã Quang Hiến) tương truyền có 12 cửa trạm mà Lê Lợi đã dấu quân, luyện tập binh mã, ở cửa trạm thứ 12 có Thác Ông – thác Lê Lợi gắn với vị chủ tướng của cuộc khởi nghĩa.

Ở làng Năng Cát hiện nay có đền thờ Lê Lợi. Đền thờ này vốn được nhân dân dựng lên ngay sau khi Lê Lợi mất để tưởng nhớ công ơn. Trải qua sự hủy hoại của thời gian, thiên nhiên và con người, đền thờ cũ không còn. Gần đây, để tiếp nối lại truyền thống xưa, đền thờ mới được xây dựng với quy mô khiêm tốn, nhưng đã trở thành nơi sinh hoạt tâm linh cho nhân dân trong vùng.

  1. Vấn đề phát huy giá trị trong hoạt động du lịch

Những di tích gắn với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ở Lang Chánh không những là những “gạch nối” của quá khứ hào hùng với hiện tại, mà còn là nguồn liệu lịch sử - văn hóa quý báu có thể phát huy trong bối cảnh hiện tại để phát triển kinh tế - xã hội. Khía cạnh quan trọng nhất của các di tích này có thể đóng góp cho huyện Lang Chánh đó là sự khác biệt, khiến cho du lịch cộng đồng hay du lịch sinh thái ở Lang Chánh mang được màu sắc đặc biệt so với nơi khác đồng dạng như Pù Luông. Theo đánh giá của các chuyên gia du lịch thì sự khác biệt này là vốn quý trong phát triển du lịch. Hiện nay, Lang Chánh có 3 điểm du lịch thuộc tuyến du lịch số 5 của tỉnh Thanh Hoá, đó là: Di tích lịch sử văn hoá Chùa Mèo – Danh lam thắng cảnh Thác Ma Hao – Bản Nguyên sơ bản Năng Cát, xã Trí Nang. Cả 3 điểm này đều chứa đựng dấu ấn độc đáo liên quan đến thời kỳ gian khổ của nghĩa quân Lam Sơn. Bên cạnh đó, những dấu tích, địa điểm khác cũng có khả năng khai thác tốt trong hoạt động du lịch. Một số điểm cần lưu ý là:

- Các di tích gắn với khởi nghĩa Lam Sơn ở Lang Chánh đều nằm lẻ tẻ ở những khu vực xa xôi, ẩn khuất trong rừng núi. Vì vậy, để khai thác hiệu quả các giá trị độc đáo này cần kết hợp với việc phát huy thế mạnh của Lang Chánh trong hoạt động du lịch là du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng. Việc xây dựng các điểm, tuyến du lịch cần kết hợp nhiều yếu tố đặc trưng để du khách có thể “thưởng thức cùng lúc nhiều món ăn”: được leo núi, vượt rừng, tắm thác, được thưởng thức các món ăn đặc trưng của đồng bào, được chìm đắm trong không gian thiêng liêng vọng về qua các di tích, được say sưa khám phá các nét văn hóa còn nguyên sơ đầy kỳ thú trong các bản làng.

- Lựa chọn bản Năng Cát làm điểm du lịch trọng điểm của huyện gắn với du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng. Nói về du lịch sinh Thái ở xứ Thanh ngày nay người ta hay nghĩ tới Pù Luông bởi nơi đây có hệ sinh thái rừng và hệ động thực vật phong phú, cảnh quan thiên nhiên đa dạng, nguyên sơ và văn hóa cộng đồng người Thái vẫn còn giữ được nhiều giá trị độc đáo. Thực tế ở Pù Luông đã xây dựng được trung tâm thông tin du lịch, khu du lịch cộng đồng, khu nghỉ dưỡng cao cấp, khu bảo tồn động, thực vật phục vụ tham quan với diện tích được quy hoạch lên đến gần 18.000ha. Mặc dù chưa có bề dày khai thác và nổi tiếng như Pù Luông nhưng bản Năng Cát có những lợi thế riêng để có khả năng phát triển tốt hơn nữa trong tương lai. Nằm dưới chân núi Chí Linh, khí hậu ở đây quanh năm mát mẻ, có thể ví như một Sa Pa của xứ Thanh, xung quanh có nhiều thắng cảnh đẹp, đặc biệt là thác Ma Hao. Người dân trong bản còn lưu giữ được nhiều nếp nhà sàn truyền thống cùng với phong tục độc đáo của đồng bào người Thái. Đặc biệt những dấu tích, truyền thuyết về Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn ở Lang Chánh có thể quy tụ về đây để xây dựng thành một khu tưởng niệm với nhiều hạng mục: đền thờ Lê Lợi, khu tái hiện lịch sử chống giặc Minh nhấn mạnh đến những sự kiện gian khổ khi nghĩa quân phải ẩn nấp trên núi Chí Linh, điểm dừng chân thổi cơm của nghĩa quân Lam Sơn, tảng đá Lê Lợi, gốc cây ngàn năm tuổi, vườn cây… Bên cạnh đó, khai thác các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Thái để tạo thành điểm nhấn liên hoàn: tổ chức xòe Thái, hát Khắp, biểu diễn cồng chiêng, tổ chức dệt thổ cẩm cho du khách trải nghiệm. Những nét độc đáo trong văn hóa ẩm thực cũng cần chú trọng để tạo cho du khách một sự thích thú khi đến đây.

- Chú trọng đến liên kết vấn đề liên kết phát triển du lịch. Liên kết các điểm có di tích gắn với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn để tạo thành một tour du lịch về nguồn; liên kết điểm có di tích với làng bản truyền thống, suối, thác để tạo nên những sản phẩm du lịch phong phú trên cùng một tour; liên kết Lang Chánh với những điểm du lịch khác trong và ngoài tỉnh để tăng cường hiệu quả khai thác.

  1. Thay lời kết

Hệ thống di tích gắn với khởi nghĩa Lam Sơn ở Lang Chánh là tài sản tinh thần, nhân văn to lớn của địa phương, thể hiện truyền thống lịch sử văn hóa đáng quý và tự hào của cộng đồng cư dân bản địa. Trong bối cảnh hiện nay, việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa một cách hữu hiệu đối với hệ thống di sản, di tích này là vấn đề cấp bách đang được đặt ra. Để công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích gắn khởi nghĩa Lam Sơn ở Lang Chánh thực hiện có hiệu quả, rất cần sự nghiên cứu chuyên sâu và chuyên nghiệp. Đặc biệt, phải có chương trình điều tra tổng thể, toàn diện và đưa hệ thống di tích này vào công tác bảo vệ thường xuyên cũng như hòa vào dòng chảy xã hội, để di tích tồn tại trong cộng đồng dân cư một cách bền vững, lâu dài, phục vụ hữu ích sự nghiệp phát triển toàn diện của địa phương./.

T.V.T – L.T.T

 

 

Chú thích

[1] Hoàng Việt thi văn tuyển, bản dịch của Nguyễn Sĩ Lâm trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (thế kỷ X – thế kỷ XVII), Nxb Văn hóa, Hà Nội 1962, tr. 278.

[2] Dẫn theo Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn (1977), Khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1427), Nxb Từ điển bách khoa, 2010, tr.153.

[3] Theo lời kể của trụ trì Thích Nguyên Hải, đăng trên http://congly.vn/giai-tri/van-hoa/len-dinh-mieu-tu-nghe-chuyen-vua-le-thoat-kiep-nan-245792.html ngày 3/3/2018.

[4] Số liệu của Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thanh Hóa.

[5] Theo Trịnh Sinh (2014), Dấu tích thời Lê trên đất Mường Lang Chánh, https://baomoi.com/dau-tich-thoi-le-tren-dat-muong-lang-chanh/c/23252660.epi

[6] Sự giải thích tên làng dưới đây theo tư liệu của cuốn Địa chí huyện Lang Chánh, Nxb Khoa học xã hội, tr.546-547.

Tác giả: PGS.TS. Trần Văn Thức – TS. Lê Thị Thảo
In tin    Gửi email    Phản hồi


Các tin khác:
 GIẢI PHÁP NẦNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH, THỰC TẬP SINH VIÊN NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI (29/11/18)
 TÁC ĐỘNG CỦA DI CƯ LAO ĐỘNG ĐẾN GIA ĐÌNH Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY (29/11/18)
 TIN HỌC HÓA QUY TRÌNH QUẢN LÝ THI (NỘP ĐỀ, RA ĐỀ, TỔ CHỨC THI) TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH THANH HÓA (29/11/18)
 YẾU TỐ TỘC NGƯỜI TRONG XÂY DỰNG MÔ HÌNH THIẾT CHẾ VĂN HÓA TẠI KHU VỰC MIỀN NÚI THANH HÓA (29/11/18)
 TỤC KẾT CHẠ CỦA LÀNG VĨNH YÊN (29/11/18)
 SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐIỀN DÃ TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HÓA TẠI TRƯỜNG VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH THANH HÓA. (29/11/18)
 NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE NHÂN DÂN TẠI BỆNH VIỆN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP (10/10/18)
 GIÁ TRỊ VĂN HÓA ĐỘC ĐÁO CỦA NGƯỜI MƯỜNG TẠI THÔN CAO VÂN, XÃ NGỌC KHÊ, HUYỆN NGỌC LẶC, TỈNH THANH HÓA (10/10/18)
 GIA ĐÌNH VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY (05/10/18)
 ẢNH HƯỞNG CỦA DI CƯ LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI NGƯỜI GIÀ Ở NÔNG THÔN HIỆN NAY  (25/09/18)
Hôm nay 3383
Hôm qua 4318
Tuần này 16972
Tháng này 79333
Tất cả 3048116
Browser   (Today) Chi tiết >>
KHOA VĂN HÓA - THÔNG TIN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH THANH HÓA
Email: khoavanhoathongtin.dvtdt@gmail.com

 

 
@2015 Bản quyền thuộc về Trường Đại học Văn hóa Thể thao và Du lịch Thanh Hóa
 
Cơ sở: Số 561 Quang Trung 3, P. Đông Vệ, TP. Thanh Hóa  Điện thoại: (0237) 3953 388 - (0237) 3857 421
Chịu trách nhiệm nội dung: TS. Lê Thanh Hà - Hiệu trưởng nhà trường
Email: dhvhttdlth@gmail.com - Website: http://wwww.dvtdt.edu.vn