Nghiên cứu khoa học
MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐÌNH LÀNG XỨ THANH

  1. Đặt vấn đề

Xứ Thanh từ xa xưa đã nổi tiếng là vùng đất rộng, người đông có đủ các vùng miền núi, trung du, đồng bằng và ven biển. Đi khắp các thôn, làng, bản, chòm ở mọi vùng miền tỉnh Thanh ta đều bắt gặp nhiều truyền thuyết, huyền thoại, chiến công lịch sử. Những câu chuyện, những nhân vật đều gắn với những di tích, thể hiện rõ sự đấu tranh gian lao vất vả và niềm tin khát vọng, lạc quan của con người trong công cuộc khai phá đất đai, phát triển sản xuất và đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ sự yên vui cho cuộc sống. Với 1.535[1] di tích, ở đó không chỉ chứa đựng những giá trị văn hoá vật thể quí giá và đặc sắc, mà chính ở các di tích này còn tiềm ẩn nhiều giá trị văn hoá phi vật thể. Đình làng  xứ Thanh là một minh chứng. Đình không chỉ là nơi thờ Thành hoàng (các vị Nhiên thần, Thiên thần, Nhân thần...),  không chỉ là thiết chế văn hóa, mà quan trọng hơn ở đó còn là tinh thần cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng, cân bằng đời sống tâm linh, sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa. Đó là nơi kết tinh nhiều giá trị, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, nơi bảo lưu sắc thái văn hoá quê Thanh để phát triển kinh tế và du lịch.

  1. Vài nét về Đình làng xứ Thanh

2.1. Vai trò của Đình làng trong đời sống người dân

Đình làng là một biểu tượng văn hóa, tâm linh, tín ngưỡng quan trọng trong đời sống làng xã người Việt. Theo các tài liệu thư tịch cổ để lại thì đình Việt Nam xuất hiện vào cuối thời nhà Lý - Trần (khoảng những năm 1156). Ban đầu đình chỉ là nơi nghỉ chân của các bậc vua chúa, quan lại (đình - có nghĩa là dừng, dừng lại, dừng chân, đình giống như trạm nghỉ). Đến thời nhà Trần, khi Phật giáo trở thành quốc giáo thì ngôi đình có thêm chức năng tín ngưỡng đó là thờ Phật (Vua Trần Thái Tông từng có chiếu dụ rằng: “Phàm nơi nào có đình trạm đều phải tô tượng Phật để thờ”.

Có thể nói đình làng là một giá trị văn hóa vật thể vô cùng quý giá thuần Việt, nơi khai diễn những nét tài năng, tư duy của dân làng về tín ngưỡng và cũng là nơi hội tụ, trình diễn nhiều nét văn hóa phí vật thể như lễ hội, nghi lễ, phong tục, tập quán, lề thói, nghệ thuật dân gian kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, dân ca, dân vũ, trò chơi dân gian …

Đình làng đóng vai trò thiết yếu trong đời sống văn hóa người Việt Nam xưa và nay. Không chỉ với nhân tố cố kết cộng đồng làng, là trung tâm sinh hoạt văn hóa, đình làng còn là một thành phần có tính độc lập về cơ cấu hành chính.  Đình làng là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống, nơi các hoạt động văn hóa cộng đồng được tổ chức và cũng là nơi tạo nguồn cảm hứng cho người dân sáng tạo nên các giá trị văn hóa làng. Với ý nghĩa đó, đình làng là trung tâm văn hóa, là bảo tàng sống về văn hóa làng của người Việt Nam. Bên cạnh đó, đình làng còn là nơi nhận diện một cách sống động mô hình chính trị đặc thù với tính chất tự trị dân chủ làng xã, một thiết chế văn hóa tín ngưỡng tổng hợp, một không gian văn hóa tiêu biểu trong đó có những giá trị đặc sắc về nghệ thuật tạo hình, biểu diễn. Tuy nhiên, hiện nay làng xã Việt Nam, đặc biệt là ở Bắc Bộ có nhiều thay đổi, xu hướng đô thị hóa nông thôn diễn ra nhanh chóng, các giá trị văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc dần mai một, vị thế và diện mạo của đình làng đang có nguy cơ không còn vai trò của nó với cộng đồng.

2.2. Thực trang công tác bảo tồn và phát huy giá trị Đình làng ở Thanh Hóa

 Nguyên xưa, ở Thanh Hóa, hầu  như làng nào cũng có đình làng, nhưng sau nhiều thiên tai và biến cố lịch sử thì cùng với các công trình tâm linh khác như đền, chùa, miếu mạo, đình đã bị đập phá. Một số khác bị dỡ bỏ để phục vụ cho công cuộc kháng chiến, hoặc dựng trường học, làm kho hợp tác xã... Theo thống kê của Ban Quản lý di tích và danh thắng Thanh Hóa đến năm 2017, trên địa bàn tỉnh còn khoảng hơn 150 ngôi đình (kể cả địa điểm và phế tích). Hầu hết các đình làng Thanh Hóa đều có các mảng chạm khắc mang phong cách kiến trúc của thế kỷ 17 – thế kỷ 20. Phần lớn các đình làng đều khởi dựng tập trung vào thời kỳ nhà Nguyễn. Quy mô các đình làng Thanh Hóa thường có không gian nhỏ hẹp so với đình làng Bắc Bộ. Các huyện Hà Trung, Hậu Lộc, Hoàng Hóa là những địa phương có số đình nhiều hơn cả. Một số ngôi đình còn được đánh giá là có giá trị văn hóa, lịch sử, giá trị kiến trúc và nghệ thuật chạm khắc độc đáo như Phú Điền (Hậu Lộc), Đình Bảng Môn (Hoằng Hóa), Đình Động Bồng, Quan Chiêm, Gia Miêu (Hà Trung), đình Mường Đòn của đồng bào Mường (huyện Thạch Thành), Đình Thi của đồng bào Thổ (huyện Như Xuân) …

Trong xã hội phong kiến, đình làng xứ Thanh được xem là một công trình kiến trúc văn hóa tín ngưỡng, một trong những thiết chế quan trọng và là ngôi nhà cộng đồng , nơi thờ các vị thần bảo vệ làng (Thành hoàng làng). Những vấn đề liên quan đến việc làng như hội họp, thông báo, thu thuế, lễ hội, lễ tế đều diễn ra ở đình làng. Giai đoạn sau, đặc biệt là trong thời kỳ kháng chiến kiến quốc, đình là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử của dân tộc, nơi tập trung lực lượng đấu tranh, nơi tập trung nghe diễn thuyết tuyên truyền lòng yêu nước và tinh thần cách mạng, nơi gieo những con chữ, nâng cao dân trí cho những người dân lam lũ mà giàu lòng yêu nước... Chưa kể, cách thức xây dựng đình, kết cấu kiến trúc, nguyên vật liệu... cũng là những ngôn ngữ thể hiện những câu chuyện về lịch sử, văn hóa của thời đại. Bởi mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử thì cách thức xây dựng, kết cấu bộ khung, hệ mái, kể cả những nguyên vật liệu cũng có những biến đổi nhất định phù hợp với hệ thống chính trị, quan niệm của người dân tại thời điểm đó. Đến những mảng chạm khắc, những điển tích được khắc họa trên các cấu kiện gỗ hay trên các bức y môn cũng mang trong mình những thông điệp lịch sử. Nó vừa phản ánh hiện thực cuộc sống nơi thôn dã như đi cày, đi cấy, mục đồng thổi sáo..., vừa thể hiện ước mơ, khát vọng ngàn đời của cư dân nông nghiệp như hình ảnh “hổ phù ọe mặt trăng”. Đồng thời, thấy được cả sự phát triển, hòa quyện của tam giáo có mặt ở Việt Nam, đó là Phật giáo với hình ảnh lá sen, rùa..., Nho giáo với hình ảnh vinh quy bái tổ, xem điểm thi..., Lão giáo với hình ảnh tiên ông... Mặt khác, thông qua các hoạt động văn hóa diễn ra tại đình, ta dễ dàng nhận thấy nó góp phần lan tỏa, định hình nên cốt cách, chuẩn mực, tâm hồn của người dân nơi có ngôi đình hiện hữu.

Tuy nhiên, hiện nay, một thực tế đáng buồn là trong khi các loại hình khác như đền, chùa ngày càng được quan tâm, chú ý thì cùng với sự ra đời của một số thiết chế mới (nhà văn hóa, nhà truyền thống…), đình làng đang ngày càng bị rơi vào quên lãng. Nhiều ngôi đình bị hoang phế, trở thành địa điểm diễn ra các tệ nạn xã hội (tiêm, chích ma túy). Gần 30 đình làng trên địa bàn huyện Hà Trung là nơi sinh hoạt cộng đồng, không gian văn hóa truyền thống hiện đang đối mặt với sự xuống cấp nghiêm trọng[2]. Đình Thượng Phú (Kim Sơn) xã Hà Đông (Hà Trung) nổi tiếng là ngôi đình với kiến trúc Chăm độc đáo, giờ đây nền đình sụt lún, nhiều chỗ bị gãy, cột bị mối ăn rỗng, mái đình bị nghiêng dồn về phía trước. Đình Nga Châu (xã Hà Châu) vốn là di tích lịch sử cách mạng nổi tiếng một thời, giờ đây chiếc cổng bằng sắt xiêu vẹo, đứt gãy. Mái đình xuống cấp, sụt lún. Sân đình không chỉ là sân phơi mà ngay bên trong đình làng cũng được tận dụng tối đa sử dụng làm nhà kho chứa đồ của người dân địa phương. Mối mọt xông những cột gỗ, mạng nhện giăng kín khắp đình. Khác với đình Thượng Phú, đình Động Bồng xã Hà Tiến (Hà Trung) lại nổi tiếng là ngôi đình truyền thống to bậc nhất xứ Thanh. Và đây là một trong ba ngôi đình của huyện Hà Trung được xếp hạng di tích cấp quốc gia, là di tích duy nhất trên địa bàn tỉnh đến nay vẫn còn duy trì mỹ tục “Lửa đình liệu” vào thời khắc giao thừa hàng năm. Tuy nhiên, đình hiện tại lại có dấu hiệu xuống cấp. Ngoài hậu cung bị dột mái thì gian ngoài đình cũng xuất hiện nhiều vết nứt. Nhiều mảng chạm đẹp mắt, có giá trị về mặt lịch sử bị hư hỏng hoàn toàn hoặc đứng trước nguy cơ bị hư hỏng khiến nhiều người không khỏi xót xa trước những di sản vô giá mà cha ông đã để lại.  

Trong xã hội ngày nay, khi mà “hội chứng đám đông” lên ngôi, nghe người ta kháo nhau đền này thiêng, đền kia thiêng, chẳng cần phải kiểm chứng, người ta cứ kéo nhau đi. Còn các ngôi đình làng, do thiếu yếu tố “thiêng” nên mặc dù vẫn có thờ Thành hoàng đấy nhưng hầu như rất ít người đến thăm viếng. Một số ngôi đình chỉ tổ chức hoạt động vào các ngày lễ lớn của dân tộc như ngày 2/9, 30/4, 27/7..., còn lại hầu như để không, dẫn đến tình trạng đình bị rêu mốc, cây cỏ mọc um tùm. Ở một số địa phương, chính quyền đã biết tận dụng công năng vốn có của đình để làm nơi sinh hoạt chi bộ, nơi hội họp, kết nạp đoàn viên, đảng viên và thường xuyên tổ chức dọn dẹp vệ sinh xung quanh khu vực đình. Tuy nhiên là con số này không nhiều.

Hiện nay, đình làng là một trong những di tích cộng đồng thuộc diện ưu tiên quan tâm, tu bổ thường xuyên của Uỷ ban nhân dân tỉnh và các cấp, các ngành. Tuy nhiên, do nguồn kinh phí hạn hẹp, chỉ mang tính tu bổ cấp thiết, dẫn đến tình trạng không đồng bộ, chắp vá. Nhiều địa phương tu bổ một cách tự phát, thuê nhà thầu thi công không có chuyên môn, không có giấy phép hành nghề tu bổ và không theo quy định Nhà nước, dẫn đến tình trạng làm biến dạng di tích, thậm chí mất luôn các yếu tố gốc, dẫn đến việc phục hồi không theo nguyên trạng, tạm bợ, chất liệu không phù hợp, thậm chí hiện đại hóa đình làng như dựng khung bằng bê tông cốt thép, lát gạch men Trung Quốc.... Thực trạng này ngày càng phổ biến.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên nhưng nguyên nhân chủ yếu đến từ con người. Trong sự mất đi ấy, sự quên lãng của con người là một trong những nguyên nhân hàng đầu. Thêm nữa là sự thiếu hụt về mặt nhận thức đối với các công trình văn hóa tâm linh của một bộ phận không nhỏ cán bộ chuyên trách của các địa phương. Dẫn đến tình trạng biết mà không xử lý, hoặc có xử lý lại bị sai lệch. Có nhiều nơi đình còn bị sử dụng sai công năng như biến đình thành đền, thành nơi sinh hoạt của Phật giáo... Và dần dần tên gọi “đình” cũng biến mất, thay vào đó người ta gọi chệch đi theo công năng hiện tại mà quên mất giá trị vô giá của đình, đó là “hồn cốt”, là tinh túy của làng, của xã thời xưa. Và khi đến cả cái tên “đình”, “đình làng” cũng có nguy cơ bị mất, thì liệu giá trị truyền thống của nó có thể tồn tại và phát huy?

  1. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị của Đình làng xứ Thanh

Trước thực trạng trên, các cấp, các ngành, đặc biệt là Ban quản lý di tích và danh thắng Thanh Hóa  đã có nhiều cố gắng trong việc “cứu” đình làng thoát khỏi nguy cơ bị mai một, bị quên lãng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà việc làm đó vẫn chưa thực sự hiệu quả. Vậy, giải pháp nào cho đình làng Thanh Hóa hiện nay? Trước hết, về quan điểm cần coi việc bảo tồn, phát triển các giá trị của đình làng là một trong những nội dung quan trọng của việc bảo tồn, phát huy các giá trị của văn hóa làng. Trong công cuộc xây dựng nông thôn mới đang được tiến hành rầm rộ hiện nay, cần phải chú trọng đến việc bảo tồn và phát huy giá trị các không gian văn hóa làng, như cây đa, bến nước, sân đình, giếng làng… Dù có một số không gian văn hóa làng không còn được sử dụng thường xuyên trong cuộc sống mới, nhưng chúng cũng cần được bảo tồn như những biểu tượng, mang giá trị văn hóa làng, đặc biệt là giá trị cố kết cộng đồng. Đình làng cũng như vậy, cần phải được bảo tồn và phát huy giá trị, mà trước hết là giá trị biểu tượng, sau đó là giá trị hữu dụng trong sinh hoạt văn hóa, giáo dục của làng.

Theo chúng tôi, phải tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

Một là, Tăng cường công tác truyền thông, giáo dục cho nhân dân về việc bảo tồn, phát huy giá trị của đình làng. Trong các nội dung truyền thông về lịch sử, văn hóa làng, cần nhấn mạnh yếu tố Đình làng, xây dựng các nội dung hướng đến việc bảo tồn và phát huy giá trị Đình làng.  Cần phải đa dạng hóa các hình thức truyền thông như hình thức giới thiệu về di tích gắn với sự kiện lịch sử, bằng việc lồng ghép các sự kiện lịch sử vào bài học ngoại khóa của học sinh, sinh viên. Mặt khác, cần tăng cường hình thức giáo dục trong nhà trường bằng những chương trình dạy và học của học sinh, sinh viên bởi hệ thống di sản luôn gắn chặt chẽ với các giai đoạn lịch sử. Hoặc có thể  phối hợp với các trung tâm lữ hành, công ty du lịch để đưa đình làng vào các tour du lịch. Đặc biệt, gần đây khi mạng xã hội phát triển, nhiều làng nên lập trang riêng cho làng mình, kết nối dân làng khắp nơi trên thế giới. Đây là kênh thông tin vô cùng đắc dụng, đặc biệt rất hiệu quả trong việc truyền thông và kết nối đối với lớp trẻ.

- Hai là, Đưa đình làng hòa nhập vào đời sống văn hóa thời hiện đại. Một công trình kiến trúc truyền thống không thể chỉ tồn tại trong sự bảo lưu thụ động. Nếu di sản văn hóa nào đó không được người đương thời quan tâm đến, nếu không có một sự liên hệ với đời sống thực tại, thì di sản đó thực sự đã bị “đóng băng”. Vì vậy, để đình làng “sống” được và hòa nhập vào thời đại mới là cả một bài toán khó, cần có thời gian và kế hoạch lâu dài.

 Trước hết, cần phải đưa các sinh hoạt văn hóa của làng, xóm về tổ chức tại đình. Cái khó ở đây là hiện nay, hầu như xóm nào, làng nào cũng có nhà văn hóa. Do đó, cần phải rà soát lại tất cả các đình làng còn lại trên địa bàn tỉnh và số lượng các nhà văn hóa. Trên cơ sở này, xây dựng kế hoạch hoạt động cho các làng, xóm còn đình làng và chưa có nhà văn hóa, những xóm, làng có nhà văn hóa mà vẫn tồn tại đình làng. Sau đó, bổ sung những chức năng mới cho đình làng để phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, để đình không chỉ tồn tại, hòa nhập với thời cuộc mà còn trở thành cầu nối, sợi dây liên kết giữa quá khứ và hiện tại. Với những xóm, làng chưa có nhà văn hóa thì nên xem đình làng như một nhà văn hóa thực sự. Cần đưa các sinh hoạt của xóm, sinh hoạt đảng, các tổ chức đoàn thể vào tổ chức tại đình. Đồng thời, tổ chức các hoạt động như lễ kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc, lễ kết nạp đoàn viên, đảng viên, lễ xuất quân... vừa nâng cao giá trị đình làng, vừa góp phần bảo tồn, phát huy giá trị di tích.

Với những xóm, làng có cả nhà văn hóa và đình làng thì nên có những giải pháp linh động để phát huy được giá trị của cả hai, trong đó, đình làng nên ưu tiên tổ chức các hoạt động mang tính cố kết cộng đồng, các hoạt động tâm linh, tri ân... Ngoài ra, có thể xem xét, sử dụng đình làng như một nhà truyền thống, một thư viện mi ni của làng, của xã. Đình làng thường có không gian rộng và thoáng, rất dễ để trưng bày các hiện vật. Ngoài các hiện vật, hình ảnh gắn với lịch sử làng xã, cần và nên sưu tầm, trưng bày những nông cụ, hay các vật dụng hàng ngày gắn bó với đời sống làng xã mà nay đang có nguy cơ không còn nữa, như cày, bừa, trục lúa, cối xay, cối giã, áo tơi… Những hiện vật này nếu được trưng bày chắc chắn sẽ tạo nên hiệu ứng mạnh mẽ với nhiều tầng lớp nhân dân. Đối với các cụ cao niên, đó là khoảnh khắc họ sống lại với những kỷ niệm đã qua; đối với các thế hệ trẻ thì đó là sự tò mò, kích thích mong muốn được tìm hiểu, khám phá. Còn thư viện với đủ loại sách sẽ kéo theo đủ mọi lứa tuổi đến với đình. Vô hình trung, đình trở thành nơi cố kết cộng đồng cư dân làng, xã. Đấy cũng chính là ý nghĩa nguyên bản của đình làng trong suốt một thời gian dài.

Với những làng xóm không còn đình và cũng chưa có nhà văn hóa, nên nghiên cứu “tích hợp” cả hai chức năng vào trong một ngôi nhà. Ngôi nhà này nên thiết kế theo kiểu đình làng xưa, tuy nhiên rộng rãi và thông thoáng hơn. Nội thất nên có không gian thiêng để thờ thành hoàng, hoặc những vị có công với nước, với dân. Cảnh quan bên ngoài cũng nên tạo không gian gần gũi, truyền thống. Điều quan trọng là không được để đình làng không có hoạt động, không có người trông nom, chăm sóc, dẫn đến tình trạng hoang vu, lạnh lẽo, rêu mốc. Phải thường xuyên kết nối, gắn trách nhiệm với các trường học, các tổ chức đoàn thể như thanh niên, hội người cao tuổi, hội phụ nữ trên địa bàn nơi có đình làng để có người chăm sóc và bảo vệ.

- Ba là, Gắn hệ thống các đình làng với việc phát triển kinh tế du lịch.

Hiện nay, những làng quê yên ả, những nếp nhà xưa với mái đình truyền thống đang trở thành điểm đến hấp dẫn của giới trẻ và nhiều người yêu thích khám phá. Nắm bắt được xu thế ấy, nhiều công ty du lịch đã biến nhiều ngôi làng cổ thành các điểm đến du lịch hấp dẫn. Tuy nhiên, ở Thanh Hóa, đây vẫn còn là điều mới mẻ. Với lợi thế nằm trên trục đường Bắc - Nam, cách Thủ đô Hà Nội hơn 100km, có tuyến đường Hồ Chí Minh đi qua, cùng với nhiều ngôi làng cổ có niên đại hàng trăm năm như làng cổ Đông Sơn, …. là điều kiện rất thuận lợi để khách du lịch khám phá và tìm hiểu.

Bốn là, Tu bổ, tôn tạo di tích đình làng. Hiện nay, đình làng là di tích cộng đồng đang được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm, thường xuyên đầu tư, tu bổ. Để tránh việc sau khi tu bổ, di tích bị biến dạng, các hạng mục tu bổ không hài hòa, không ăn nhập với các yếu tố gốc, cần lưu ý một số điểm sau:

Tôn trọng tuyệt đối tính nguyên gốc của di tích bởi tính nguyên gốc là tiêu chí cơ bản để đánh giá giá trị của di tích nói chung và đình làng nói riêng. Nhận biết sự khác biệt giữa xây dựng mới với công tác tu bổ và bảo quản di tích  bởi về bản chất, công tác tu bổ di tích là một quá trình sản xuất sáng tạo, tuy không phải là một bộ môn khoa học độc lập, nhưng trong quá trình sản xuất nó vẫn cần có những tiền đề và cơ sở khoa học, mục tiêu bao trùm là phải xác định chính xác giá trị của di tích về mặt lịch sử, văn hóa, khoa học..., tìm biện pháp bảo tồn nguyên trạng di tích.

 Tuân thủ các nguyên tắc khoa học về tu bổ, tôn tạo, nghĩa là các chủ đầu tư và các đơn vị liên quan phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc về tu bổ, tôn tạo di tích được quy định chi tiết các văn bản quản lý nhà nước đã ban hành (Nghị định 70/2012/NĐ-CP ngày 18/9/2012 quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử văn hoá - danh lam Thắng cảnh; Thông tư 18/2012/TT-BVHTTDL ngày 28/12/2012 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích).  Ngoài ra, cần phải nghiên cứu thêm về Luật Xây dựng và một số văn bản mang tính quy phạm có liên quan.

Đẩy mạnh công tác xã hội hóa trong tu bổ di tích đình làng. Bởi hiện nay, nguồn đầu tư cho tu bổ, tôn tạo di tích rất hạn hẹp lại đầu tư lại dàn trải dẫn đến hiệu quả tu bổ không cao. Nhiều di tích vừa tu bổ năm trước, năm sau đã xuống cấp. Vì vậy, việc kêu gọi xã hội hóa trong công tác tu bổ di tích được xem là giải pháp hữu hiệu, vừa góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, vừa kêu gọi được sự chung tay của cộng đồng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản. Thực tế hiện nay, đã có nhiều ngôi đình được phục dựng, tu bổ nhờ nguồn xã hội hóa. Thực hiện tốt nguồn xã hội hóa sẽ là minh chứng cụ thể, thuyết phục tác động trở lại đến việc huy động nguồn xã hội hóa.

Năm là, Phân cấp quản lý di tích danh thắng trên địa bàn toàn tỉnh một cách khoa học. Để tăng cường trách nhiệm, nâng cao hiệu quả công tác quản lý di tích, trước hết, cần phải có một cơ cấu phân cấp hợp lý, được tiến hành đồng bộ trên địa bàn toàn tỉnh, có sự chỉ đạo, phối hợp giữa các ngành chức năng và toàn xã hội. Đặc biệt, cần quan tâm đến lực lượng cán bộ chuyên trách cấp xã và Ban quản lý các ngôi đình làng. Đây là bộ phận gần nhất, trực tiếp gắn liền với di tích nhất. Vì vậy, phải thường xuyên mở các lớp tập huấn, trang bị cho họ những kiến thức cơ bản và cách thức xử lý những tình huống có khả năng xảy ra đối với đình làng nói riêng và hệ thống di tích nói chung. Thực tế, trong những năm qua, Ban Quản lý Di tích danh thắng tỉnh Thanh Hóa cũng đã tổ chức nhiều đợt tập huấn nhưng do nguồn kinh phí có hạn nên thành phần tập huấn cũng rất hạn chế. Do đó, điều quan trọng nhất là địa phương phải tạo điều kiện cho họ tự tìm hiểu, nâng cao kiến thức, đặc biệt là những kiến thức mang tính chuyên môn về bảo tồn và phát huy disản. Riêng với Ban quản lý đình làng, ngoài việc tạo điều kiện cho họ đi tập huấn, học tập kinh nghiệm thì cần phải có chế độ đãi ngộ phù hợp để khuyến khích họ chuyên tâm công tác.

Cuối cùng, chúng tôi nghĩ rằng vấn đề bảo tồn phát huy giá trị Đình làng xứ Thanh là công việc của tất cả chúng ta, từ cộng đồng, người dân – chủ thể sở hữu di tích, từ những nhà quản lý văn hóa đến những người làm công tác nghiên cứu.

Nhân dân sống trong khu vực di tích hay lân cận khu di tích cần thấy rõ trách nhiệm và quyền lợi của mình với việc tồn tại của di tích. Có ý thức bảo vệ tránh các hoạt động có ảnh hưởng đến di tích, tôn trọng các quy định của nhà nước, cơ quan quản lý và những ý kiến của các nhà chuyên môn. 

Các nhà nghiên cứu chuyên môn như: văn hóa, lịch sử, khảo cổ, kiến trúc, các chuyên gia cần có sự trao đổi, tham khảo, phối hợp với nhau để có những định hướng, giải pháp tối ưu cho công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích cổ. Cần thấy rõ trách nhiệm của mình đối với công trình di tích nói riêng và di sản văn hóa của dân tộc nói chung.

 Các nhà quản lý và các cơ quan hữu trách cần có chính sách hợp lý kiên quyết để bảo vệ di tích. Đồng thời cần có cơ chế gắn liền quyền lợi trách nhiệm của người dân với di tích để nâng tầm giá trị di tích, và nâng cao ý thức cộng đồng, cần trao đổi, tiếp thu các ý kiến đóng góp của các nhà chuyên môn, tôn trọng quyền lợi của những người có liên quan đến di tích.

Nếu tất cả mỗi cá nhân làm đúng vai trò của mình thì những giá trị tốt đẹp của không gian văn hóa đình làng xứ Thanh - di sản đặc sắc của người Việt sẽ được lưu truyền và phát huy trong cuộc sống hiện đại./.

N.T.T.D

 

TÀI LIÊU THAM KHẢO

 

  1. Gia Linh, (2018), Di sản kiến trúc làng Việt – những tư liệu vô giá, ,http://cinet.vn, truy cập ngày 11/9/2018.
  2. Hoàng Minh Tường, (2018), Bảo tồn và phát huy giá trị những ngôi đình miền tây xứ Thanh, Báo Văn hóa và đời sống Thanh Hóa.
  3. Thảo Nguyên, (2018), Hà Trung bảo tồn các giá trị văn hóa gắn với phát triển du lịch, Báo Văn hóa và đời sống Thanh Hóa.

 

[1] Hoàng Minh Tường, (2018), Bảo tồn và phát huy giá trị những ngôi đình miền tây xứ Thanh, Báo Văn hóa và đời sống

[2]Thảo Nguyên, (2018),  Hà Trung bảo tồn các giá trị văn hóa gắn với phát triển du lịch, Báo Văn hóa và đời sống

Tác giả: ThS. Nguyễn Thị Thùy Dương
In tin    Gửi email    Phản hồi


Các tin khác:
 LÀNG CỔ ĐÔNG SƠN VÀ NHỮNG VĂN BIA MA NHAI CÒN LẠI (22/08/19)
 HOẠT ĐỘNG PHỤC VỤ THÔNG TIN LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG THỜI CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHỆ 4.0 TẠI THƯ VIỆN TỈNH THANH HÓA (22/08/19)
 NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGÀNH THÔNG TIN HỌC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA , THỂ THAO VÀ DU LỊCH THANH HÓA TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP (25/02/19)
 TÌM HIỂU PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG TRONG CÁC HỘ GIA ĐÌNH NGƯ DÂN XÃ NGHI SƠN, HUYỆN TĨNH GIA, TỈNH THANH HÓA (22/02/19)
 VAI TRÒ CỦA KIỂM HUẤN VIÊN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HÀNH THỰC TẬP CỦA SINH VIÊN NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI (22/02/19)
 Di tích về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trên đất Lang Chánh và vấn đề phát huy giá trị trong hoạt động du lịch (11/12/18)
 GIẢI PHÁP NẦNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH, THỰC TẬP SINH VIÊN NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI (29/11/18)
 TÁC ĐỘNG CỦA DI CƯ LAO ĐỘNG ĐẾN GIA ĐÌNH Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY (29/11/18)
 TIN HỌC HÓA QUY TRÌNH QUẢN LÝ THI (NỘP ĐỀ, RA ĐỀ, TỔ CHỨC THI) TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH THANH HÓA (29/11/18)
 YẾU TỐ TỘC NGƯỜI TRONG XÂY DỰNG MÔ HÌNH THIẾT CHẾ VĂN HÓA TẠI KHU VỰC MIỀN NÚI THANH HÓA (29/11/18)
Hôm nay 3295
Hôm qua 3521
Tuần này 12566
Tháng này 74927
Tất cả 3043710
Browser   (Today) Chi tiết >>
KHOA VĂN HÓA - THÔNG TIN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH THANH HÓA
Email: khoavanhoathongtin.dvtdt@gmail.com

 

 
@2015 Bản quyền thuộc về Trường Đại học Văn hóa Thể thao và Du lịch Thanh Hóa
 
Cơ sở: Số 561 Quang Trung 3, P. Đông Vệ, TP. Thanh Hóa  Điện thoại: (0237) 3953 388 - (0237) 3857 421
Chịu trách nhiệm nội dung: TS. Lê Thanh Hà - Hiệu trưởng nhà trường
Email: dhvhttdlth@gmail.com - Website: http://wwww.dvtdt.edu.vn